Filter và Interceptor là hai thành phần khác nhau được sử dụng trong Spring MVC để thực hiện các tác vụ trước hoặc sau khi một yêu cầu HTTP được xử lý.
Filter là một thành phần được triển khai bởi lớp javax.servlet.Filter
. Filter được gọi trước khi một yêu cầu HTTP được xử lý bởi một bộ điều khiển. Filter có thể được sử dụng để thực hiện các tác vụ như:
- Thêm hoặc thay đổi đầu đề HTTP.
- Kiểm tra quyền của người dùng.
- Ghi nhật ký hoạt động của người dùng.
- Thống kê thời gian phản hồi của yêu cầu.
Interceptor là một thành phần được triển khai bởi giao diện org.springframework.web.servlet.HandlerInterceptor
. Interceptor được gọi trước hoặc sau khi một yêu cầu HTTP được xử lý bởi một bộ điều khiển. Interceptor có thể được sử dụng để thực hiện các tác vụ tương tự như filter.
Sự khác biệt chính giữa filter và interceptor là filter được gọi trước khi bộ điều khiển được gọi, trong khi interceptor được gọi sau khi bộ điều khiển được gọi. Điều này có nghĩa là filter có thể được sử dụng để thực hiện các tác vụ mà không cần biết bộ điều khiển nào sẽ được gọi. Interceptor, mặt khác, chỉ có thể được sử dụng để thực hiện các tác vụ liên quan đến bộ điều khiển được gọi.
Dưới đây là một bảng so sánh các tính năng của filter và interceptor:
Tính năng | Filter | Interceptor |
---|---|---|
Được gọi trước hay sau bộ điều khiển | Trước | Sau |
Có thể được sử dụng để thực hiện các tác vụ mà không cần biết bộ điều khiển nào sẽ được gọi | Có | Không |
Có thể được sử dụng để thực hiện các tác vụ liên quan đến bộ điều khiển được gọi | Không | Có |
Được triển khai bởi lớp | javax.servlet.Filter |
Giao diện org.springframework.web.servlet.HandlerInterceptor |
Lựa chọn sử dụng filter hay interceptor phụ thuộc vào nhu cầu cụ thể của ứng dụng. Nếu bạn cần thực hiện các tác vụ mà không cần biết bộ điều khiển nào sẽ được gọi, thì bạn nên sử dụng filter. Nếu bạn cần thực hiện các tác vụ liên quan đến bộ điều khiển được gọi, thì bạn nên sử dụng interceptor.