Trong bài viết này, chúng ta sẽ nói về các khái niệm liên quan tới định kiểu dữ liệu Type
. Những khái niệm mới mà chúng ta sẽ đề cập ở đây không hẳn thuộc về Functional Programming
mà là những khái niệm phổ biến trong mảng lập trình nói chung. Đó là Kiểu Biến Thiên hay Biến Định Kiểu Type Variable
và Lớp Định Kiểu Type Class
.
Type Variable
Khái niệm Type Variable
xuất phát từ môi trường của các ngôn ngữ định kiểu tĩnh static-typing
, khi người ta bắt đầu nghĩ tới khả năng sử dụng một kiểu dữ liệu trừu tượng a
để biểu trưng cho nhiều kiểu dữ liệu khác nhau. Như vậy, khi một biến được định kiểu với kiểu a
sẽ có thể lưu trữ được một giá trị thuộc bất kỳ kiểu dữ liệu nào.
Do Type Variable
đã được đề cập trước đó trong một bài viết của Sub-Series Declarative
nên ở đây mình sẽ chỉ trích dẫn lại phần nội dung đã thực hiện để chúng ta có thể di chuyển nhanh tới khái niệm tiếp theo.
Các ngôn ngữ thuần
Declarative
hầu hết đều được xây dựng với một tinh thần chung - đó là khả năng định kiểu rất mạnh mẽ và nghiêm ngặtstrong-typing
. Và ở đây chúng ta cóElm
là một trong số đó.
Cụ thể là thông báo lỗi như ví dụ phép tính
+
giữa một giá trịInt
và một giá trịFloat
mà chúng ta đã nhìn thấy ở phần đầu của bài viết. Mặc dù trình biên dịchcompiler
củaElm
đã có đủ thông tin về các giá trị nhận được trước khi thực hiện phép tính, tuy nhiên chỉ đơn giản làElm
không hỗ trợ tự động chuyển đổi kiểu ngầm định trong trường hợp này. Và chúng ta sẽ cần phải thực hiện việc chuyển kiểu dữ liệu trong code của mình -
(toFloat (round 1.0)) + 2.0
-- 3 : Float
Ồ thế nhưng tại sao phép tính
1 + 2.0
lại không có thông báo lỗi ?
Giá trị
1
trả về bởiround
được định kiểu làInt
. Còn giá trị1
mà chúng ta viết trực tiếp vào trong tệp code của chúng ta thì lại chưa được định kiểu cố định, do đó nênElm
sẽ xem là một giá trị thuộc kiểu biến thiênnumber
.
Khái niệm kiểu biến thiên
Type Variable
, có thể hiểu đơn giản là một kiểu dữ liệu bất kỳ mà trình biên dịchcompiler
không tìm thấy thông tin định kiểu rõ ràng trong code. Và sẽ cố gắng tìm ra một logic xử lý thành công phù hợp nhất.
Chính xác thì một kiểu biến thiên
a
được hiểu là một kiểuUnion
bao gồm tất cả các kiểu dữ liệu mà trình biên dịch thu thập được trong code định nghĩa của toàn bộ chương trìnhproject
. Tuy nhiên,Elm
cũng có tạo ra một vàiType Variable
với khả năng hữu hạn hơn so vớia
. Đó là -
number
- là một giá trị số học; Vì vậy nên có thể làFloat
hoặcInt
.comparable
- là một giá trị có thể so sánh được bằng chương trìnhcompare
; Bao gồmInt
,Float
,Char
,String
, vàList/Tupple
của các kiểu đó.appendable
- là một giá trị có thể thực hiện các thao tác nối ghép nội dung; Vì vậy nên có thể làString
hoặcList
.compappend
- là một giá trị vừa thuộccomparable
và vừa thuộcappendable
.
Như vậy khi trình biên dịch đọc phép tính
1 + 2.0
thì giá trị2.0
đã có đủ thông tin định kiểu rõ ràng làFloat
do có dấu phẩy thập phân.
; Còn giá trị1
thì chưa có thông tin định kiểu cụ thể nên sẽ lànumber
. Logic thành công phù hợp nhất làFloat + Float
và chúng ta có logic được biên dịch là1.0 + 2.0
. Phép tính được thực hiện và không có thông báo lỗi.
Type Class
Khái niệm Type Class
hay còn được gọi ngắn gọn là Class
cũng là một khái niệm phổ biến trong lập trình nói chung và không thuộc về riêng bất kỳ ngôn ngữ hay mô hình lập trình nào. Tuy nhiên cũng giống Type Variable
, khái niệm Class
được hiểu và triển khai trong các mô hình lập trình có phần khác nhau do bối cảnh áp dụng và nền móng tư duy khởi điểm.
Đối với tư duy Lập Trình Hướng Đối Tượng OOP
thì một Class
được sử dụng để biểu trưng cho các giá trị thuộc các kiểu dữ liệu trong cùng dòng kế thừa tính từ chính Class
đó cho tới các Class
mở rộng được định nghĩa sau. Tức là nếu như chúng ta có Class Person
được sử dụng để định kiểu cho một biến someone : Person
thì biến đó sẽ có thể lưu thực thể dữ liệu tạo ra từ chính Class Person
hoặc bất kỳ Class
nào khác ví dụ như Worker
hay Teacher
kế thừa từ Class Person
.
Còn trong tư duy Lập Trình Hàm Functional Programming
thì các Class
lại được sử dụng để nhóm các kiểu dữ liệu khác nhau với logic giống với CSS Class
. Tức là các kiểu dữ liệu được nhóm lại có thể không liên quan tới nhau về mặt logic quản lý dữ liệu của chương trình, mà có cùng giao diện chức năng. Ví dụ đơn cử như trường hợp của comparable
ở phần trước của bài viết có thể được xem là một Class
bởi bất kỳ kiểu dữ liệu nào thuộc comparable
thì sẽ có thể tham gia vào một phép so sánh.
Như vậy chúng ta cũng có thể hiểu Class
là một Kiểu Tổ Hợp Union Type
biểu trưng cho nhiều kiểu dữ liệu khác nhau, nhưng được sử dụng ở khía cạnh mô tả chức năng tham gia vào một logic xử lý nào đó. Và ở điểm này thì Class
của Functional
lại có thể được hiểu là có chức năng tương đương với Interface
trong OOP
- tức là công cụ được sử dụng để tạo ràng buộc cho các kiểu dữ liệu cụ thể khi tham gia vào Class
sẽ phải triển khai những chức năng mà Class
đó đã khai báo.
Elm
không có cú pháp hỗ trợ khai báo Class
và chúng ta sẽ tham khảo một code ví dụ từ Haskell
- ngôn ngữ được xem là superset
của Elm
. Ở đây chúng ta sẽ có Class Eq
được khai báo là những kiểu dữ liệu thuộc Class
này sẽ có thể tham gia vào các phép kiểm tra tính tương đương ==
và /=
. Lưu ý trước khi đọc code ví dụ là Haskell
sử dụng ký hiệu ::
để định kiểu thay vì một dấu hai chấm :
như Elm
.
class Eq a where (==) :: a -> a -> Bool (/=) :: a -> a -> Bool
Định nghĩa này có thể được đọc là chúng ta có class Equal
được khai báo là bất kỳ kiểu dữ liệu a
nào thuộc class
này cũng đều phải định nghĩa logic chi tiết cho các hàm so sánh tính tương đương ==
và /=
. Như vậy sau khi định nghĩa xong một kiểu dữ liệu nào đó, chúng ta có thể thực hiện khai báo để kiểu dữ liệu đó thuộc class Equal
và cung cấp logic xử lý chi tiết cho các phép so sánh.
instance Eq (Maybe m) where Just x == Just y = x == y Just x /= Just y = x /= y -- Nothing == Nothing = True Nothing /= Nothing = False -- _ == _ = False _ /= _ = True
Code ví dụ trên đã tạo ra một thực thể instance
từ class Equal
để trình biên dịch nạp vào thông tin rằng kiểu Maybe m
được khai báo thuộc class Equal
và cung cấp logic so sánh chi tiết cho các trường hợp dữ liệu Maybe a
. Như vậy chúng ta đã có thể sử dụng các phép so sánh ==
và /=
cho các giá trị thuộc kiểu Maybe a
giống như khi làm việc với các giá trị số học; Hoặc có thể nói cách khác là chúng ta đã overload
các hàm ==
và /=
để hỗ trợ thêm kiểu Maybe a
.
> (Just 9) == (Just 5)
False : Bool
Oh.. như vậy là Type Class
là công cụ để hỗ trợ tạo ra các tên hàm phổ biến dùng chung cho nhiều kiểu dữ liệu khác nhau. Và mặc dù các phiên bản của các hàm này được định nghĩa chi tiết ở các module
riêng nhưng chúng ta sẽ có thể sử dụng cú pháp gọi hàm chung mà không cần tham chiếu từ tên của các module
.
Ví dụ như khi chúng ta tạo ra tên hàm show
, hay image
, hay toString
để chuyển các giá trị bất kỳ có thể có cấu trúc đơn giản hay phức tạp thành chuỗi mô tả. Chúng ta sẽ không cần phải gọi các hàm này theo cú pháp List.show [0, 1]
, Int.show 9
, v.v... mà chỉ đơn giản là show [0, 1]
hay show 9
.
Elm
không hỗ trợ Type Class
ở cấp độ cú pháp của ngôn ngữ, tuy nhiên chúng ta có thể nhìn thấy rằng mục đích của Type Class
là tạo ra giao diện sử dụng chung cho các hàm xuyên suốt các module
. Thêm vào đó là với định hướng tiếp cận người viết code có căn bản JavaScript
nên các module
của Elm
đang sử dụng quy ước đặt tên theo kiểu OOP
để chúng ta sử dụng cú pháp gọi hàm tham chiếu từ tên module
.
Như vậy chúng ta nên thuận theo quy ước sẵn có của Elm
và nghĩ đến một phương thức tạo ràng buộc để trình biên dịch có thể đưa ra thông báo nhắc nhở nếu một module
nào đó chưa triển khai một class
mà chúng ta quy ước. Cụ thể là chúng ta có thể lưu các hàm vào các record
mô phỏng class
.
type alias Comparable a = { compare : a -> a -> Order , lt : a -> a -> Bool , le : a -> a -> Bool , gt : a -> a -> Bool , ge : a -> a -> Bool , min : a -> a -> a , max : a -> a -> a }
Sau đó ở các module
muốn tạo ràng buộc triển khai class
này, chúng ta có thể tạo một hàm implementComparable
và trả về một record
với định kiểu a
được chỉ định cụ thể và các thuộc tính được gắn với các hàm được định nghĩa trong module
đó.
module Book exposing (Book, implementComparable) type alias Book = { ... } implementComparable : Comparable Book
implementComparable = Comparable compare lt le gt ge min max
Như vậy trước khi viết logic hoạt động chính của chương trình tại Main
, chúng ta có thể gọi tới các hàm implement...
ở các module
tự định nghĩa để kiểm tra thông báo lỗi. Do các thuộc tính của record Comparable
đều được định nghĩa không sử dụng Maybe
nên các hàm implement...
ở các module
buộc sẽ phải được truyền vào đầy đủ các tham số. Trong trường hợp chúng ta quên chưa viết code triển khai chi tiết cho một hàm nào đó ở một module
bất kỳ có implement...
thì trình biên dịch sẽ đưa ra thông báo lỗi.
(chưa đăng tải) [Functional Programming + Elm] Bài 4 - Functor & Applicative