- vừa được xem lúc

[Database] Bài 3 - Relational Database

0 0 10

Người đăng: Semi Art

Theo Viblo Asia

Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng thảo luận về một chủ đề mới có tên lâ Relational Database. Từ relational - tạm dịch là sự liên hệ, liên quan - được sử dụng ở đây để biểu thị cho tính chất đặc trưng của các bản ghi trong database. Khi chúng ta muốn thiết kế một database mà dữ liệu được lưu trữ ở dạng các bản ghi có các mối liên hệ qua lại, bổ trợ lẫn nhau; thì chúng ta có thể gọi đây là một relational database.

Các mối liên hệ của các bản ghi được biểu thị như thế nào?

Xuất phát điểm là từ nhu cầu muốn mở rộng tính năng cho trang blog đơn giản mà chúng ta đang xây dựng. Trong bài viết trước, chúng ta đã nói tới việc giả định là giao diện web mà chúng ta xây dựng sẽ có thêm các trang đơn trình bày nội dung giới thiệu về một danh mục category. Và lúc này hiển nhiên nội dung của mỗi trang đơn này cũng là một bản ghi và cần được lưu trữ trong database giống như các bản ghi article và các bản ghi admin.

Lúc này chúng ta đang có các bản ghi article và các bản ghi category cùng biểu thị một phần thông tin chung - đó là tên hiển thị của các danh mục.

 +----------------------------------------------------+ | article | | id: 0000 | | title: Làm Thế Nào Để Tạo Ra Một Trang Web? | | short-title: Getting Started | | | | category: html | | | | keywords: tutorial, html, document | | edited: Fri, 15 Apr 2022 11:01:34 GMT | | content: Một nội dung rất rất dài... | +----------------------------------------------------+ +----------------------------------------------------+ | article | | id: 0001 | | title: Cách Chèn Ảnh & Các Liên Kết | | short-title: Getting Started | | | | category: html | | | | keywords: tutorial, html, image, link | | edited: Fri, 15 Apr 2022 12:03:45 GMT | | content: Một nội dung khác cũng rất rất dài | +----------------------------------------------------+ +-------------------+ | category | | id: 00 | | name: html | | ... | +-------------------+

Đây là dạng biểu thị khi chúng ta đã truy xuất bằng code và chuyển các bản ghi thành các objectdữ liệu. Ở đây chúng ta đang có các bản ghi article thuộc danh mục html và có thuộc tính category: html; Và một bản ghi category biểu thị tên của danh mục với thuộc tính name: html.

Câu chuyện lúc này là giả sử chúng ta đang có 1001 bài viết article thuộc danh mục này và muốn thay đổi tên hiển thị của danh mục thành html5. Hiển nhiên là trước hết chúng ta sẽ thay đổi giá trị của thuộc tính name trong bản ghi category ở trên. Tuy nhiên để đảm bảo kết quả hiển thị đồng nhất ở cả những trang đơn của bài viết nữa thì chúng ta sẽ cần phải sửa lại luôn cả giá trị của thuộc tính category trong 1001 bản ghi article.

Phương án xử lý như thế này là hoàn toàn khả thi và không khó khăn đối với khả năng xử lý của máy tính và khả năng viết code của chúng ta ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên ở đây chúng ta lại có thể tiếp tục cải thiện cái convention lưu trữ dữ liệu thêm một chút - để code của chúng ta không cần phải thực hiện thao tác xử lý lặp với một tập kết quả truy vấn. Cụ thể là ở các bản ghi article, thay vì lưu trữ trực tiếp tên hiển thị của một category, chúng ta có thể lưu trữ trị số định danh id của category đó.

 +-------------------------+ | article | | id: 0000 | | title: ... | | short-title: ... | | category-id: 00 | | ... | +-------------------------+ +-------------------------+ | article | | id: 0001 | | title: ... | | short-title: ... | | category-id: 00 | | ... | +-------------------------+ +-------------------+ | category | | id: 00 | | name: html | | ... | +-------------------+

Lúc này, khi truy vấn nội dung của một bản ghi article và gửi phản hồi cho trình duyệt web, chúng ta có thể thực hiện thao tác tìm kiếm tên hiển thị của danh mục tương ứng bằng cách đi từ trị số được lưu ở khóa category-id của article tìm tới bản ghi category tương ứng và truy xuất giá trị của thuộc tính name.

Và như vậy là các bản ghi article đã có sự lệ thuộc vào thông tin chi tiết được cung cấp bởi các bản ghi category và chúng ta đã có thể gọi cơ sở dữ liệu của chúng ta là relational database.

Các dạng thức liên hệ có thể xuất hiện trong relational database

Trong ví dụ ở phần trên, chúng ta có dữ liệu của một bản ghi category được sử dụng bởi 1001 bản ghi article thuộc danh mục html. Dạng thức liên hệ này được quy ước với tên gọi là one-to-many - hay một-và-1001 - đại ý nói là khi một bản ghi thuộc một kiểu dữ liệu này được tham chiếu tới từ 1001 bản ghi thuộc một kiểu dữ liệu khác.

Bên cạnh đó thì trong những trường hợp sử dụng khác, chúng ta sẽ có thể có những dạng thức liên hệ khác là -

  • Dạng thức one-to-one - hay một-và-một - khi một bản ghi thuộc kiểu dữ liệu này được tham chiếu tới từ duy nhất một bản ghi thuộc kiểu dữ liệu khác, và ngược lại.
  • Dạng thức many-to-many - hay 1001-và-1001 - khi mỗi bản ghi thuộc kiểu dữ liệu này có thể được tham chiếu tới từ 1001 bản ghi thuộc kiểu dữ liệu khác, và ngược lại.

a. one-to-one

Dạng thức one-to-one thường được sử dụng khi chúng ta muốn tách rời một nhóm dữ liệu khỏi một bản ghi lớn, để sử dụng cho mục đích truy xuất riêng và biểu thị tới người dùng hoặc xử lý logic đặc trưng nào đó của web hay phần mềm.

Ví dụ như khi bạn xây dựng một nền tảng blog cho nhiều người dùng; việc quản lý thông tin người dùng có thể được lưu trữ bằng các bản ghi userperson như sau -

 +-----------------------+ +-----------------------+ | user | | person | | id: ... | | id: ... | | username: ... | | firstname: ... | | password: ... | | lastname: ... | | | | address: ... | | person-id: ... | | mobile: ... | +-----------------------+ | email: ... | | ... | +-----------------------+

Ở đây thông tin của mỗi người dùng được biểu thị bằng một bản ghi lớn và được tách ra làm hai nhóm thông tin userperson. Mục đích của thiết kế này là để tách rời nhóm thông tin hiển thị person khỏi các thông tin dành cho chức năng đăng nhập. Điều này giúp cho chúng ta có thể sử dụng các bản ghi person trong code xử lý các tác vụ khác mà không gặp phải rủi ro về việc thao tác nhầm trên các thông tin đăng nhập cần bảo vệ.

b. one-to-1001

Với ví dụ mở đầu của bài viết thì chúng ta đã biết về one-to-1001 rồi. Dạng thức này được sử dụng khi phần mềm của chúng ta cần phân chia các bản ghi của một kiểu dữ liệu nào đó thành các hạng mục không giao thoa - tức là mỗi bản ghi sẽ chỉ thuộc một hạng mục duy nhất.

c. 1001-to-1001

Để lấy ví dụ mô tả cho dạng thức này, chúng ta hãy giả định là blog đơn giản mà chúng ta đang xây dựng sẽ có thêm một tính năng nữa - đó là các trang đơn biểu thị cho các từ khóa keywords hay còn được gọi là các thẻ tags. Đại loại là các trang đơn đó sẽ có dạng giống với một trang hiển thị cho thẻ java của Viblo đi cho dễ hiểu. 😄

https://viblo.asia/tags/tutorial

Trang đơn này hiển thị các bài viết được các tác giả gắn thẻ tutorial và không quan trọng là các bài viết này thuộc danh mục gì - ngôn ngữ nào, framework nào, v.v... - cứ miễn được gắn thẻ tutorial là sẽ được hiển thị.

Như vậy là lúc này chúng ta sẽ có thêm các bản ghi tag thay thế cho việc lưu trữ các từ khóa trực tiếp trong các bản ghi article. Đồng thời, chúng ta có thể thấy rằng mỗi bản ghi tag có thể được sử dụng bởi nhiều bản ghi article, và ngược lại.

Việc thể hiện mối liên hệ giữa các bản ghi article và các bản ghi tag trong database ở trường hợp này sẽ tùy thuộc vào các khả năng mà môi trường phần mềm cung cấp. Do chúng ta đang lưu trữ bằng các tệp tĩnh tự tạo quy ước và xử lý bằng code JavaScript, các liên kết giữa các bản ghi có thể biểu thị bằng cách lưu một mảng id của các tag trong mỗi bản ghi article - và ngược lại.

 +----------------------------------------+ | article | | id: ... | | ... | | tag-id: 00000000, 00000001, ... | | ... | +----------------------------------------+ +------------------------------------+ | tag | | id: ... | | name: ... | | article-id: 0001, 0009, ... | | ... | +------------------------------------+

Như vậy là chúng ta đã có thể truy xuất tới tên của các tag liên quan từ mỗi bản ghi article - và ngược lại.

Phần mềm quản trị database

Như vậy là tính tới thời điểm này, chúng ta đã đi qua những kiến thức cơ bản về database và đã có thể bắt tay vào việc viết code chi tiết cho một module quản lý database - chính là tệp manager.js mà chúng ta đã có từ quy ước ở đầu Sub-Series này. Đó có thể được xem là một phần mềm quản trị database được nhúng trong bộ code web mà chúng ta đang xây dựng.

Việc tự thiết kế và viết một phần mềm quản trị database cho nhu cầu sử dụng không quá phức tạp là rất quan trọng. Tuy nhiên mọi thứ sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu như chúng ta có một nguồn tham khảo. Và cách tốt nhất để có kinh nghiệm về việc thiết kế một thứ gì đó - là chúng ta cần sử dụng một thứ đã được xây dựng sẵn bởi những người đi trước và đã được tin tưởng, sử dụng bởi cộng đồng.

Nói riêng về relational database, nếu như bạn Google thử từ khóa này thì sẽ thấy các kết quả tìm kiếm đều liên quan tới một hệ quản trị database có tên là SQL ... gì đó. Hệ quản trị này bao gồm một database trừu tượng được lưu trữ ở dạng các tệp đặc biệt mà chúng ta sẽ không bao giờ phải mở xem trực tiếp; và một phần mềm quản trị cho phép chúng ta tự thiết kế dạng thức của các kiểu dữ liệu ở dạng các bảng chứa các bản ghi.

Môi trường vận hành của SQL ... có phần kém linh động hơn so với khả năng truy xuất các tệp tĩnh của JavaScript mà chúng ta đang sử dụng. Và đối với dạng thức liên hệ many-to-many ở trên thì chúng ta sẽ cần thiết kế một bảng dữ liệu trung gian để biểu thị mối liên hệ giữa các bản ghi article và các bản ghi tag.

Tuy nhiên bù lại thì chúng ta sẽ có được sự đảm bảo về mặt nhất quán dữ liệu nhờ các công cụ hỗ trợ tạo các ràng buộc giữa các bản ghi. Và từ đó chúng ta cũng sẽ tự tin hơn trong việc thiết kế và viết phần mềm quản trị database đơn giản cho nhu cầu sử dụng hiện tại. Và vì vậy nên...

(Chưa đăng tải) [SQL] Bài 1 - SQL Là Cái Gì?

Lại thêm Sub-Series mới à? Chúng ta vẫn còn NodeJS, ExpressJS, và Database ở đây vẫn còn chưa đâu vào đâu...

Mình biết, mình biết... thế nhưng mục tiêu gần nhất của chúng ta là có được một blog cá nhân để sử dụng chứ không phải là hoàn thiện một Sub-Series kiến thức nào cả. Nếu như bạn chọn dừng lại ở thiết kế web đơn giản chỉ cần 1001 trang đơn hiển thị các bài viết và một trang chủ thì chúng ta có thể dừng lại ở đây được rồi. Tuy nhiên nếu như bạn dự định rằng blog của bạn sẽ có luôn những tính năng khác như các trang đơn thể hiện cho mỗi danh mục và mỗi tag thì chúng ta nên đi tiếp. 😄

Hmm.. nhưng mà nếu tính từ thời điểm chúng ta bắt đầu học code server-side cho tới giờ thì hình như chặng đường mà chúng ta đã đi qua cũng khá dài rồi; Và có lẽ chúng ta cần có một kết quả biểu thị để có tinh thần tiếp tục tìm hiểu kiến thức mới. Mặc dù là rủi ro rằng sau một thời gian nữa chúng ta có thể sẽ phải thực hiện khá nhiều thay đổi đối với cả database và code xử lý khi có thêm những kiến thức và tầm nhìn mới.

Hmm.. nếu vậy chúng ta có thể quyết định thế này đi.. Bây giờ chúng ta sẽ xì-tốp cái Sub-Series SQL tạm một quãng thời gian để tập trung viết code chi tiết quản lý database đơn giản và hoàn thiện trang blog cá nhân với một trang chủ và 1001 bài viết đã. À còn cả trang đăng nhập quản trị và giao diện soạn thảo bài viết đơn giản nữa.

Sau khi đăng tải xong trang blog cá nhân đơn giản trên Glitch.com, chúng ta sẽ quay lại thực hiện Sub-Series SQL để học thêm kiến thức mới và tính đến chuyện mở rộng tính năng của trang blog sau đó. Còn ở thời điểm mở rộng thêm tính năng cho blog, nhỡ như chúng ta có phải bỏ nguyên cái project đang có để xây dựng lại từ đầu thì.. đành chịu thôi. 😄 Bởi vì ở thời điểm hiện tại, chúng ta không thể cứ cố gắng tưởng tượng về 1001 bước đi tiếp theo trong hành trình Tự Học Lập Trình Web Một Cách Thật Tự Nhiên của chúng ta được. 😄

Vậy chúng ta cứ quyết định vậy nhé. Hẹn gặp lại bạn trong các bài viết tiếp theo.

(Sắp đăng tải) [Database] Bài 4 - Viết Code Quản Lý Database Đơn Giản

Bình luận

Bài viết tương tự

- vừa được xem lúc

Mô hình quan hệ - thực thể (Entity – Relationship Model)

Mô hình quan hệ thực thể (Entity Relationship model - E-R) được CHEN giới thiệu vào năm 1976 là một mô hình được sử dụng rộng rãi trong các bản thiết kế cơ sở dữ liệu ở mức khái niệm, được xây dựng dựa trên việc nhận thức thế giới thực thông qua tập các đối tượng được gọi là các thực thể và các mối

0 0 117

- vừa được xem lúc

[Embulk #1] Công cụ giúp giảm nỗi đau chuyển đổi dữ liệu

Embulk là gì. Embulk là một công cụ open source có chức năng cơ bản là load các record từ database này và import sang database khác.

0 0 40

- vừa được xem lúc

Window Functions trong MySQL, Nâng cao và cực kì hữu dụng (Phần II).

Chào mọi người, lại là mình đây, ở phần trước mình đã giới thiệu với mọi người về Window Functions Phần I. Nếu chưa rõ nó là gì thì mọi người nên đọc lại trước nha, để nắm được định nghĩa và các key words, tránh mắt chữ O mồm chứ A vì phần này mình chủ yếu sẽ thực hành với các Window Functions.

0 0 90

- vừa được xem lúc

Window Functions trong MySQL, Nâng cao và cực kì hữu dụng (Phần I).

Chào mọi người, mình mới tìm hiểu đc topic Window Functions cá nhân mình cảm thấy khá là hay và mình đánh giá nó là phần nâng cao. Vì ít người biết nên Window Functions thấy rất ít khi sử dụng, thay vì đó là những câu subquery dài dằng dặc như tin nhắn nhắn cho crush, và người khác đọc hiểu được câu

0 0 897

- vừa được xem lúc

Disable và Enable trigger trong Oracle

Origin post: https://www.tranthanhdeveloper.com/2020/12/disable-va-enable-trigger-trong-oracle.html.

0 0 29

- vừa được xem lúc

Lưu trữ dữ liệu với Data Store

. Data Store là một trong những componet của bộ thư viện Android JetPack, nó là một sự lựa chọn hoàn hảo để thay thế cho SharedPreferences để lưu trữ dữ liệu đơn giản dưới dạng key-value. Chúng ta cùng làm một so sánh nhỏ để thấy sự tối ưu của Data Store với SharedPreferences nhé.

0 0 61